Wednesday, December 7, 2011

MƯA XUÂN



Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay".

Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.
Mưa bụi nên em không ướt áo
Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Mình em lầm lũi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!
áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: "Mùa xuân đã cạn ngày".

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ em rằng hát tối nay?

NGUYỄN BÍNH


Ngày xuân nói chuyện “Mưa xuân”
trong thơ Nguyễn Bính



Nói đến mùa xuân, đến tết cổ truyền của dân tộc, thì không thể không nhắc đến mưa xuân. Có ai trong chúng ta, dù xa quê hương đã lâu, không quên được cái tiết của ngày ấy.
Cả đất trời ong óng, biêng biếc, được bao trùm trong một làn sương khói lững lờ, e ấp quấn quít nơi vòm cây, mái phố. Và ta nghe ở đâu đó, trong xa thẳm, trong mỗi thân cây, gốc rạ, trong cảnh vật quen thuộc, từng tiếng động rất khẽ. Rất khẽ. Phải mùa xuân đang về hay tiếng cựa mình của đất đai sau một mùa đông giá rét, tiếng động của chồi non đầu tiên nhú trên cây?. Trùm lên tất cả bức tranh yên ấm ấy là một làn mưa bụi mỏng li ti. Giăng giăng khắp ao chuôm, đồng, bãi. Mưa không đủ làm ướt áo, ướt đầu.

Năm mươi năm trước, trong một ngày sương khói như vậy, thi sĩ “chân quê” Nguyễn Bính đã ghi lại một cách tuyệt với cảnh sắc ấy trong bài “Mưa xuân” của mình. Trong toàn bài hình ảnh mưa xuân được nhắc đến 5 lần, và trong cái thanh bình yên ả của một làng quê cổ miền Bắc, mưa xuân hiện ra như một nhân vật có tâm hồn, từng lúc buồn vui, đồng cảm với người thôn nữ lần đầu yêu.

Khổ đầu của bài thơ mở ra như cánh màn nhung từ từ kéo lên, kể về câu chuyện mộc mạc nơi làng quê:
Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.


Phải nói rằng, những câu thơ Nguyễn Bính thật “tầm vóc” (chữ của nhà văn Tô Hoài). Ta có cảm giác như đang ngồi trước sân khấu. Cảnh êm đềm của hai mẹ con đang ngồi bên nhau, âu yếm đùm bọc trong thế giới riêng. Đêm đêm, những ngón tay xinh xắn của cô thôn nữ lướt trên khung cửi và cô ngồi trong ánh mắt dịu dàng, che chở, đùm bọc của bà mẹ. Mặc ngoài kia ong bướm đi về. Lòng trẻ còn trong trắng, thơm ngát.

Thế nhưng cái thế giới riêng nhỏ bé ấy, thâm nghiêm và kín cổng cao tường đó, một hôm bị xao động. Cái ngày có biến động được đánh dấu bằng sự hiện diện của mưa xuân.
Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.


Mưa xuân xuất hiện lần đầu trong bài thơ và cũng là mưa đầu xuân nên… “phơi phới bay”. Như tâm hồn của ai vậy. Tô điểm cho không khí rạo rực của những ngày đầu Xuân không phải là hoa đào tươi thắm, không phải là lay ơn sang trọng mà chỉ là hoa xoan. Hoa xoan khiêm tốn giản dị, không cầu kỳ phô trương sắc đẹp, biểu tượng của nông thôn Việt Nam. Hoa xoan và đom đóm tháng 3, có ai quên được?





Giữa cái khung cảnh nên thơ ấy, ngoài mưa xuân phơi phới, đất trời tươi tắn, trên làng dưới xóm rộn rã tết, những sắc hoa xoan tím rải rác, thì người mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”. Lòng nào mà ngồi cho yên được. Nên cô bé của chúng ta bỗng:
Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh



Mẹ có cấm thì… mặc. Em đâu có lỗi. Những ngón tay búp măng, xinh xắn, mảnh dẻ của cô bé hơi run rẩy trên khung cửi cùng với trái tim nhỏ thầm đập hồi hộp sau làn áo mỏng.
Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ tới anh…



Không, chưa có gì!… mới chỉ là “hình như” thôi.


Sau cái cảnh mưa bụi bay, hoa xoan rụng đầy đất, hội chèo đi qua ngõ, và khi nhân tố “anh” xuất hiện thì cô bé không còn tĩnh tâm được nữa. Chuyện tình tiếp tục:
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên,

Mưa chấm tay em từng chấm lạnh,

Thế nào anh ấy chẳng sang xem






Nguyễn Bính đã tạc qua từng ấy thời gian hình ảnh cô thôn nữ ngửa tay, hứng từng hạt mưa bụi, dưới làn áo mỏng, trái tim run rẩy. Em đâu cầu xin số phận:
Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe,

Mưa bụi nên em không ướt áo,

Thôn Đoài cách có một thôi đê.



Em ra đi vào đám hội. Hơi vội. Lòng tràn đầy hy vọng, vì… “thế nào anh ấy chẳng sang xem”. Mẹ già không nghi ngờ “vuông lụa trắng” của mình, nên chỉ dặn: “xem về kể mẹ nghe”.

Mưa xuất hiện lần này là “mưa bụi”. Mưa xuân dường như cũng đồng loã với cô bé. Nhưng tại sao cô không lo ướt đầu, mà chỉ lo ướt áo? ấy là vì còn để khoe bộ cánh mới, để làm đỏm với người tình. ướt đầu cũng được, chứ ướt áo thì gay. Mà có xa xôi gì đâu: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Nếu viết là: Cách một con đê, một quãng đê, một khúc đê… thì câu này coi như hỏng. Cái cô bé của năm xưa, áo tứ thân, răng đen thì phải nói là “một thôi đê”, nghe mới thú. Từ “thôi đê” đã lâu không được dùng, lần này vang lên trong thơ Nguyễn Bính nghe rất “đã”. “Thôi đê”, có nghĩa là cũng gần thôi. Đi đến với người yêu thì xa mấy cũng gần. Đêm hội diễn ra thật náo nhiệt:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em


Lễ hội hay như vậy mà cô chả thiết xem. Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em, còn em thì mải tìm… ai.

Lời thơ mộc mạc, chân thành, tha thiết như mối tình của cô gái quê:
Chờ mãi anh sang, anh chả sang,

Thế mà hôm nọ hát bên làng,

Năm tao bẩy tiết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng


Chờ mãi mà người ấy không đến. Thế rồi cô ra về, con đường cũ giờ đây dài dằng dặc:
Mình em lầm lũi trên đường về,

Có ngắn gì đâu một dải đê

áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt

Lạnh lùng em tủi với canh khuya.


Không khấp khởi, hớn hở như lúc đi. Âm thầm giữa canh khuya. Mưa xuất hiện lúc này không còn là mưa bụi dịu dàng nữa, mà có phần gay gắt: “Mưa nặng hạt”. Mưa cũng có hồn tựa một nhân vật xuất hiện theo từng lớp truyện. Và cô bé không che đầu bằng ô, che đầu bằng một vật gì đó, tàu lá chẳng hạn, mà “áo mỏng che đầu”. Hình tượng cô gái lấy tà áo che đầu cho khỏi ướt có cái gì rất dân dã, mộc mạc. Không gặp được người ấy, thì bây giờ ướt áo có làm sao.






Cuối cùng, mưa xuân và hoa xoan lại xuất hiện khi câu chuyện khép lại, hội chèo làng Đặng ra về qua ngõ:
Bữa ấy, mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giầy

Hội chèo làng Đặng ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


Những hạt mưa không còn bay nữa. Hoa xoan nát dưới chân giầy. Mùa xuân dường như vô tình với em. Đời con gái là bao, mà sao mùa xuân đã sớm cạn ngày? Cô gái thầm hỏi và hy vọng:
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ bảo rằng: “Hát tối nay!”


Bao giờ mưa bụi bay lần nữa để cho em vội vàng xin phép mẹ ra đi?

Ngày hôm nay, nhà thơ đã trở thành người thiên cổ, thiếu nữ năm xưa chắc tóc đã trắng phau vì nhuộm “nước thời gian”. Mùa xuân này, mưa bụi bay, bà cụ vẫn ngồi sưởi bên bếp sưởi, hơ bàn tay nhăn nheo, cặp mắt như nước, người già có nhớ không cái đêm hội năm xưa ở bên Đoài? Xuân này đứa cháu gái cụ tuổi cập kê cũng đang đến chỗ hẹn. Cô có gặp may hơn không?

Mà thôi, mưa xuân đang phơi phới bay, tôi cũng muốn ngửa lòng bàn tay trước mái hiên để còn vội vàng… Mưa bụi bay…



Nguyễn Thiên Việt
Mưa xuân




Mùa xuân đất Bắc, mùa xuân Hà Nội, năm nào cũng vậy, Tết đến là lúc trời thả tấm màn dệt bằng mộng ảo cho đầy hồn người nơi xa thương nhớ, cho thắm thiết người được du xuân với khí hạo nhiên giao cảm đắm say... Hình như mưa xuân đã khởi hành từ thiên vạn cổ, gần Tết tạm dừng chân ở một bến hoang sơ, lấy thêm sức lực, rồi khi mảnh vườn quê hoa cải tóa vàng, bức tường bao sân đình được quét lớp vôi trắng lốp, khi chợ hoa Hàng Lược của Hà Nội muôn hồng nghìn tía chen vai, là lúc mưa xuân có mặt, lây phây bụi phấn, bàng bạc màn tơ, đỗ xuống mái tóc người mà không ướt, bảo cho những bàn tay tìm nhau, mách những mái đầu nhích lại... và cho cả đất trời một niềm tươi mới, như Huy Cận nói:

Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm



Cây tốt, người tươi đã đành, đến chiếc cột buồm khô nỏ, chịu đựng bão giông trùng khơi muôn dặm, mà lá buồm như lồng ngực người trai miền biển kia phải gồng lên hứng lấy... cũng trở lại tốt tươi, tưởng như chiếc cờ hiệu bé tí tẹo trên đỉnh cột kia bỗng trở thành chiếc lộc xuân non vừa nở, sức mạnh của xuân, của mưa xuân ấy, hèn nào năm nào cũng vậy, người bạn phương trời cứ phải gửi thư về hỏi xem chợ hoa xuân đã có mưa chưa? Như bạn gửi cho ta một cành mai vàng máy bay vi vút tầng không.

Trên những cánh đồng lúa vừa cấy kín, mỗi thửa ruộng là một mặt gương lấp lánh, mưa mờ như sương, mưa giăng như khói, mưa như tấm voan mỏng che mặt cô dâu làm ta hồi hộp đợi chờ, biết rằng sau tấm màn kia, có bí mật và khát khao, có trần gian và siêu thoát, có mộng mị và bùa mê... Chợt nhớ đến câu thơ:

Mùa xuân phép lạ, mưa không nước
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy...



Nàng đợi tiếng trống chèo, đợi người ta hẹn, đợi niềm thầm kín nhớ thương, đợi người vượt qua được con đê dài để được đắm vào mắt nhau, chả biết trên bốn chiếc chiếu kia, tích chèo có tình vui hay lụy thảm, có tính tang hay giọt lệ ra sao...

Thương cho một Hàn Mặc Tử hình như chưa hề đến Hà Nội và miền Bắc một lần, nên câu thơ tuyệt cú của thi nhân chỉ là:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng...
(Mùa xuân chín)



Giá mà Hàn đã gặp mưa xuân, hẳn chúng ta chắc có thêm bài thơ bất hủ nữa, chứ không phải chỉ có:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang...


Thứ mưa không mưa, thứ mưa sương khói, thứ mưa tình xao xuyến như thế, khổ thân cho thầy giáo và học trò đến trường, nhưng lại là phần thưởng quý báu của thiên nhiên vũ trụ cho ta, cho người yêu nhau, cho ai đợi nhau, cho thi nhân, cho cây cỏ hứa hẹn mùa màng, khi:

Chùm hoa buông tím, trời hư ảo
Lá quên mình đang biếc, lá xanh thêm...
(Phạm Ngà)


Lá cứ mướt như thế dù đã mướt như không thể mướt hơn, thật khác nỗi buồn não nùng yếm thế của Vũ Hoàng Chương lúc mới ngoài 30 tuổi:

Mưa rơi, chiều, ngõ hẹp
Lá vàng bay ngổn ngang.






May thay, mưa vẫn mưa nhưng là mưa ấm nồng cuộc đời, dù trên đường xa mải miết hay "trước hiên nhà" mà Vũ Đình Minh, con người sinh ra nơi đất bãi, làm thầy giáo tận vùng cao, nhưng mưa quê, khói bãi vẫn là thao thức nỗi niềm:

Mưa xanh biếc dăng mềm như sợi khói
Ấm như tay mà mát như tay...



Cái cảm giác tương phản, đầy mâu thuẫn ấy là rất đúng, như có lần chủ súy văn đàn Thế Lữ giảng về kịch có nói: Băng lạnh như phải bỏng... Phải đứng trước mưa, phải dầm trong mưa, phải hòa vào mưa... ta sẽ cảm nhận được cái diệu kỳ phơ phất, cái mông lung của thực và không thực của nước và khói, của ta và đất trời... như người thơ nói hộ cho ta.

Nhà thơ quá cố Tô Hà chẳng biết có hẹn hay có tiễn người thực không, và nay ở cõi xa vời, ông có thả hồn mình về xứ mưa trần thế, nhưng ông để lại một niềm mưa tâm trạng như đêm Liêu Trai, như truyện Truyền kỳ của Nguyễn Dữ, khiến ta cũng không hiểu ta có còn là ta không trong cái mông lung huyền hoặc ấy:

Chẳng thấy trời đâu thấy nước đâu
Bờ xuân mờ mịt cả chân cầu
Người không sương khói mà sương khói
Qua lại mơ hồ dáng dấp nhau.



Mùa thu vốn là mùa đẹp đã đành. Nhưng mùa xuân chẳng lẽ không đẹp ư? Không phải. Hai mỹ nhân đứng bên nhau sao trời đất lại ác nghiệt bắt ta chọn một. Ta thành kẻ tham lam quái quỷ, đáng ghét, bởi ta muốn chọn cả hai, nàng này mi cong dáng liễu, nàng kia má lúm đồng tiền, uyển chuyển gót son... Nàng này có cái răng khểnh "chết người", nhưng nàng kia có sợi tóc mai cong cong như dấu hỏi bên má hường hường (mà chắc là ấm sực)... Xuân ơi, Thu cho cây đàn tâm tưởng tấu một khúc Bá Nha, dù chẳng biết nên ta có cái tai thần Tử Kỳ nào nữa...





Mưa xuân không bẻ bai như mưa thu, không ồn ào nức nở như mưa rào giữa hạ, cũng không đến nỗi gai ghê như mưa đông trên tàu chuối sau nhà... Mưa xuân là đầm ấm, làm tóc người yêu ta thành một trời sao ánh sáng, cái hôm ta tiễn nhau về, chia hai ngả, bỗng giận con đường sao không là một vòng tròn để quay lại gặp nhau, mà nó cứ thẳng, nó bắt ta với người dần xa dần xa hun hút, một lúc đã ba năm, một trời dăng mưa khuất:

Em đưa tiễn, bước chân gìn giữ lắm
Hạt mưa dùng dằng ngọn cỏ ven đê...



Đến ngọn cỏ vô tri còn dùng dằng huống chi trong ngực ta là tiếng trống dập dồn, trong bàn tay ta còn vương hương bông hoa bưởi người trao bàn tay cho ta...Dù mưa trong bao la đồng bãi, trên triền đê im lìm, ngoài sông vắng mang mang... mưa xuân vẫn là nỗi niềm, là lời không tiếng, là bóng không hình... khác hẳn cái mưa ràn rạt của xứ mùa mưa mà Nguyễn Hà ghi lại một đêm Vũng Tàu đầy tiếng người và tiếng sóng đầy ánh đèn và động cơ xe cộ:

Giọt mưa xóa những ánh đèn
Gầy vai ướt tóc làm đêm sũng buồn...



Mưa đã thành giọt, mưa đã sũng tóc, mưa đã nuốt tươi cả ánh sáng, thứ mưa ấy không phải là mưa xuân trên chợ hoa, mưa của hội làng, mưa của nhớ nhung một thời khôn nguôi nơi chân trời góc bể...Mùa xuân lại về, ta đợi hồn mưa, chứ không phải đợi trận mưa, vì mưa xuân không thành trận, mưa xuân chỉ là hồn, hồn đất nước hòa với hồn ta... Ta dầm vào mưa, cho ta, cho cả những ai phải lãng thân về xứ khác, cầu cho ai kia có ngày trở lại, được đắm vào mưa như ngã vào lòng người tri kỷ...





Băng Sơn
MƯA BONG BÓNG

Tác giả : Lý Quang Diệu



Mưa ngày xưa rơi trên đường phố
Mưa vô tình làm ướt áo em
Mưa ngày xưa từng cơn mưa không dứt
Mưa vô tình cho mình quen nhaụ
Mưa ngày xưa rơi trên đường vắng
Mưa u hoài vì mong dáng ai
Mưa ngày xưa từng cơn thương nhớ
Mưa đâu ngờ chúng mình yêu nhau

Nhớ nhớ mưa bong bóng, nhớ dáng em buồn, nhớ lệ em tuôn
Nhớ mưa bong bóng, nhớ khi tan trường em sát vai anh
Hai mái đầu sánh thì thầm trước ngõ
Hai mái đầu sánh tình yêu trọn vẹn
Ai ngờ bong bóng vỡ tan

Bây giờ em đã sang ngang theo chồng
Trời mưa bong bóng phập phồng
Em đi lấy chồng để khổ cho anh
Anh về ôm mối thương đau
Em đi có nhớ mưa nào năm xưa
Phải chi hôm ấy đừng mưa
Phải chi hôm ấy đừng đưa em về
Mưa bong bóng ( Lý Quang Diệu) - Vũ Khanh hát
GIỌT MƯA THU

Tác giả : Đặng Thế Phong




Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!

Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành
như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi
mưa buồn chi
cho cõi lòng lâm ly

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời
chân buông mau
dương thế bao la sầu

Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh
mây ngỏ trời xanh
chắc gì vui
mưa còn rơi
bao kiếp sầu ta nguôi

Gió xa xôi vẫn về
Mưa giăng mù lê thê
Đến bao năm nữa trời ...
... Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu
Giọt Mưa Thu - Thanh Thúy
Mối tình của Đặng Thế Phong và các Ca khúc cuối đời


Ðặng Thế Phong – Tài Hoa Bạc Mệnh (1918-1942)
bài viết Nhạc sĩ Lê Hoàng Long

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)


Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.

Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!

Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.

Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!

Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).

Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà, chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40 năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.

Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp:

Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có đuyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!

Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:

- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !

Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.

Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:

Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…

Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!”
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.

Chính vì thế mà có một ngườl ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong :

- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !

Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !

Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.

Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!

Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!

Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.

Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.

Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.

Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.

Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:

- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !

Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :

- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.

Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !

Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

Niệm khúc cuối : sáng tác NGÔ THỤY MIÊN

Dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
Dù cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây
Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy
Có lá buồn gầy, dù sao, dù sao đi nữa tôi vẫn yêu em.
Tựa vai nhau cho nhau yên vui ấm áp cuộc đời
Tìm môi nhau, cho nhau rã nát, rã nát tim đau
Vừa đôi tay, ước muốn tù đầy,
Tóc rối bạc màu vết dấu tình sầu
Nhìn em, nhìn em giây phút, muốn nói yêu em.
Xin cho tôi, tôi như cơn ngủ, ru em, đưa em một lần
Ru em vào mộng, đưa em vào đời, một thời yêu đương.
Cho tôi xin em như gối mộng, cho tôi ôm em vào lòng.
Xin cho một lần, cho đêm mặn nồng, yêu thương vợ chồng
Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời
Dù cho em, em đang tâm xé, xé nát tim tôi
Dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời
Cũng đã muộn rồi
Tình ơi! dù sao đi nữa xin vẫn yêu em …

Trong lịch sử nhân loại tình yêu luôn là bí ẩn, là đề tài vô tận của thơ ca và nhạc họa. Xuân Diệu đã ví von rằng :"Yêu là chết ở trong lòng một ít” . Nhưng thực chất tình yêu là gì thì vẫn là một câu hỏi lớn mà bao nhà thơ, nhà triết gia, nhạc sĩ tài ba…muốn tìm hiểu và khám phá qua mỗi thi phẩm, nhạc phẩm của mình.
Nhắc đến tình yêu, là nhắc đến những định nghĩa đẹp đẽ và sâu sắc. Tôi đã nghe và cảm rất nhiều ca khúc về tình yêu mang âm điệu buồn và khơi gợi những tâm trạng đau đớn, mỏi mệt. Nhưng "Niệm khúc cuối" đem lại cho nhiều người, và cả tôi trong đó,cái cảm giác trái tim đã thắt đau mà tâm hồn vẫn nhẹ bẫng. Và nếu một lần nghe "Niệm khúc cuối" sẽ là một lần để cho tâm hồn ấy được tự do, một lần tự giải thoát nỗi lòng và để nhớ một thời ta đã yêu...
Người ta dễ phải lòng nhau bằng ánh mắt gần gũi, một nụ cười dễ mến, và có thể bằng tiếng sét ái tình. Rồi gắn bó, trọn vẹn một lời thề thì phải dành nhiều thời gian nhiều lần, để khoảnh khắc ấy là mãi mãi. Một khi đã hiểu từng nhịp tin yêu, đã biết rằng dù bất kì điều gì có thể lay động, thì tình yêu sẽ vẫn cận kề, người ta sẵn sàng để bảo vệ tình cảm ấy. Như trong một khoảnh khắc, người ta có thể thốt lên rằng ...
Dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
Dù cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây
Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy
Có lá buồn gầy, dù sao, dù sao đi nữa tôi vẫn yêu em


Cuộc đời là một ca khúc bí ẩn, và người ta biết rằng muốn nó hay và ý nghĩa thì chắc phải tìm cảm hứng nơi tình yêu. Thế nên vượt qua thách thức cuộc đời, tình cảm vẫn trọn vẹn dành cho một người dường như là điều kiên định nhất.. Chẳng thế mà, dù mang nặng nỗi lòng hờn tủi, lời nói yêu thương vẫn muốn trao đi thật nhẹ, thật khẽ. Lời đầu cho ca khúc mở ra như thế, và cho dù có thế, "..vẫn yêu em"!
Khi yêu người ta thường hay mơ mộng lãng mạn, rồi ngay cả lúc tình yêu không trọn vẹn, vẫn ước ao về nhau. Như trong lời ca khúc, "giấc mộng" phải chăng chỉ đơn giản là yêu và được yêu lâu dài. Nhưng chính khi điều tưởng đơn giản đối với những người yêu nhau mặn nồng ấy không thể thành hiện thực, một lần nữa vết thương lòng càng như bị cắt sâu thêm.
Yêu dù khó khăn và trắc trở đến đâu nhưng chỉ một phút giây bên nhau cũng thấy êm ấm và bình yên. Và ai cũng biết rằng, hạnh phúc nhất cho cả cuộc hành trình dài một đời người là tìm được nửa yêu thương của mình, với cái kết có hậu là trọn vẹn bên nhau. Nhưng chữ ngờ ở đời đâu ai có thể dự đoán được. Cũng trong hoàn cảnh trái ngang như thế, mà trong một ca khúc khác, "Bản tình cuối", Ngô Thụy Miên đã chiêm nghiệm rằng:
Ngày nào người cho ta biết tình yêu đắm say
Ngày nào đời cho ta biết tình là đắng cay

Dịu dàng và đắm say, những phím nhạc của "Niệm Khúc Cuối" dẫn dắt người nghe quên đi cảm giác về nỗi buồn u uẩn mà lướt nhẹ trên những dòng cảm xúc ấy và gây xúc động bằng chính âm hưởng dịu êm, tha thiết. "Niệm khúc cuối" được viết vào đầu thập niên 70 cùng với một loạt các ca khúc cùng thời của tác giả Ngô Thụy Miên như "Dấu tình sầu", "Bản tình cuối",.. nên mang ít nhiều phong cách lãng mạn và hướng về những câu chuyện tình buồn ướt át. Riêng ca khúc "Niệm Khúc Cuối" đã được rất nhiều ca sĩ nổi tiếng hải ngoại (Dalena, Khánh Ly, Elvis Phương, Ái Vân ..) và trong nước (Đàm Vĩnh Hưng, Lam Trường, Khánh Ngọc, Lê Hiếu, Hồng Ân,..) thể hiện theo nhiều bản phối và theo các phong cách khác nhau. Nhưng đọng lại trong các bản thu âm ấy vẫn là chất nhạc ấm áp, giai điệu lắng đọng du dương thể hiện cảm xúc về một thứ tình cảm lãng mạn nhất: tình yêu!
Ở những lời cuối của bài hát, tâm sự về một tình yêu quá nhiều mong ước được thổ lộ một cách chân thành:
Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời
Dù cho em, em đan tâm xé, xé nát tim tôi
Dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời
Cũng đã muộn rồi
Tình ơi! dù sao đi nữa xin vẫn yêu em


Nếu như ở những phần đầu của ca khúc, người ta chỉ nhận thấy nỗi niềm day dứt nhớ, và mong ước quá đỗi giản dị nhưng không thực : "cho tôi xin một lần, yêu thương vợ chồng”, thì ở khúc cuối bài hát sự thật trước mắt trở lại hiện thực. Cái hiện thực ".. dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời, cũng đã muộn rồi.." chỉ được nhắc đến khi người ta hiểu, ước mơ và kỉ niệm chỉ thật đẹp khi mọi thứ đã qua. Nếu con người ta đã dắt nhau qua biết bao khó khăn, nhưng cuối cùng lại phải nhường lại hạnh phúc cho người "đưa em đi đến cuối cuộc đời", mơ ước mãi rồi cũng chỉ có thể thốt lên một lời cay đắng:"Tình ơi! dù sao đi nữa xin vẫn yêu em".

TRẦN HUYỀN NHUNG

Sáng nay ra phố gội đầu
Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa


Khi rời California tìm một nơi có đời sống thong thả, yên ổn để nuôi các con, chúng tôi rơi ngay vào một vũng nước mưa: thành phố Seattle của bang Washington. Lúc nào ông trời Seattle cũng mưa được. Không mưa sáng thì mưa chiều, không mưa chiều thì mưa tối. Vào mùa Hạ thì thỉnh thoảng mới có một hôm nắng nguyên ngày. Tối hôm trước đi ngủ, bầu trời đêm cao thăm thẳm, trong veo, không một gợn mây, thế mà nửa đêm thức dậy nghe như có tiếng ai gõ nhẹ trên mái gỗ, lắng nghe một lúc biết là trời bắt đầu mưa.

Tôi nằm im lặng nghe mưa.

Tôi sinh ra ở Việt Nam, một nước thuộc miền nhiệt đới và lớn lên giữa miền Nam nắng hai mùa, giữa những cơn mưa bất chợt ập xuống mùa hạ chói chang và một mùa mưa kéo dài sáu tháng. Mưa trở thành một người bạn thiết, một nỗi thân quen. Có những kỷ niệm ướt sũng nước mưa, chẳng làm sao lau khô được, nên mưa trở thành một nhắc nhở hiện tại.

Tiếng mưa Sài Gòn không giống tiếng mưa Seattle. Mưa Sài Gòn đập ầm ầm thảng thốt trên mái nhà, nhất là những mái nhà tôn. Ban đêm mưa đánh thức giấc ngủ của ta, lôi ta ra khỏi những cơn mộng hay thức ta dậy để tiếp tục yêu thương, hờn giận, để hoàn tất những công việc của ngày qua chưa làm hết. Ban ngày, đôi khi mưa như một ân sủng của trời trút xuống, gột rửa bao bực nhọc, làm mới lại và xóa hộ những điều không muốn giữ. Nhưng mưa lớn cũng là nỗi hãi hùng của những người buôn thúng, bán bưng, nỗi lo âu của người chủ gia đình không mang về đủ một bữa cơm có thịt, có cá buổi chiều. Khi là một cơn mưa trung bình, tiếng mưa rơi lộp bộp trên những tàu lá chuối, âm thanh đều đều như tiếng nhạc đệm, lắng nghe nó cho ta cái cảm tưởng được nhàn nhã, thư thái. Khi mưa nhỏ hạt, tiếng róc rách trên mái nhà lá vừa thơ mộng vừa buồn bã, nghe mãi, nghe mãi, đâm ra mê lúc nào không biết.


Tôi nhớ những buổi tan trường, nếu lỡ một trong hai chuyến xe buýt, đành phải đi bộ từ trường về nhà. Quần áo trắng ướt sũng, cặp sách ôm che ngang ngực con gái mới lớn, chạy vội vàng trong buổi chiều, sợ ai nhìn xấu hổ. Ở tuổi mười sáu mười bảy, ít khi bị cảm, bị lạnh. Về đến nhà, mẹ bắt thay quần áo, uống một ly trà nóng, lau khô mái tóc, là ấm người ngay.


Khi lớn hơn chút nữa, những lần đi chơi với người yêu gặp trời mưa, hai người che chung một cái áo mưa hay một cái dù. Vừa bối rối, vừa sợ, vừa hạnh phúc. Chỉ sợ ướt cái áo dài mỏng, nhưng lại mong sao con mưa đừng tạnh và con đường đừng hết. Ôi những cơn mưa chợt đến chợt đi trong khí hậu nóng ẩm làm mặt đường bốc khói, lượng nước trút xuống hào phóng quá, làm ngập lụt những con đường không thoát nước, ta như được bơi trong một giòng sông ngọt ngào, ngắn hạn!

Bây giờ, vào những buổi sáng ở Seattle, đi ra đường gặp cơn mưa lớn hiếm hoi, nghe tiếng mưa rơi trên hàng cây xanh mướt, những chùm là sạch sẽ, sự rung động êm ả thanh bình thì những cơn mưa vùng nhiệt đới xa xăm với những tiếng đập rộn ràng lại khua vang trong đầu. Mưa lớn ở Seattle chỉ là những cơn mưa nhanh hạt, tiếng gió, tiếng lá chạm vào nhau, có òa ra thì cũng chỉ to bằng tiếng khóc.
Sáng nay ra phố gội đầu
Giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa

(Thơ tmt)


Tôi đã quen lắm với mưa Seattle, thân thiện với mưa, vì mưa đi bên tôi hầu như mỗi ngày. Nhờ mưa Seattle, tôi thấy quý sự hiếm hoi của mặt trời rực rỡ và trong mắt tôi, bầu trời trên mái nhà tôi cao và xanh hơn bầu trời của những nơi khác, vườn nhà tôi mưa tinh khiết và mưa lãng mạn hơn bất cứ nơi nào.

Nhưng vào những ngày mưa kéo dài cả tuần lễ, thì những giọt mưa âm thầm lặng lẽ dai dẳng chảy xuống như những dòng lệ mầu xám trong một bức tranh sơn dầu, nhắc tôi nhớ đến bức tranh nằm sâu trong tâm khảm: một chiếc phà chở quan tài từ từ tách bến Sài Gòn qua bên kia Thủ Thiêm, trên nóc quan tài ướt sũng một lá quốc kỳ xô lệch trông như một chiếc chăn cũ vàng ố, rách nát, bát nhang tắt ngấm vì nước mưa, người lính đi tháp tùng đứng im lìm như một pho tượng của ngàn năm cũ. Mưa thản nhiên rơi trên quan tài, rơi trên đầu, trên cổ người lính từng giọt, từng giọt. Tôi đứng nhìn ông Trời họa sĩ vẽ tranh vào không gian. Mầu xám của nền trời căng ra như một khung vải, chiếc quan tài phủ quốc kỳ xộc xệch, người lính đứng bên, mặt lạnh, xanh tái như màu áo trận, trên chiếc phà cũ kỹ, bạc phếch. Tất cả được họa sĩ Trời mang vào trong tranh, dưới một gam màu lạnh. Tôi mang theo bức tranh này trong suốt mấy chục năm ở quê người, đó là tài sản duy nhất sót lại của đời người di tản.

Lúc tôi đến trại Pendleton cũng là vào một đêm mưa. Mưa không to lắm, nhưng khí hậu sa mạc của California về đêm làm mọi người lạnh cóng. Trẻ con, người lớn và ngay cả người già, mỗi người đều được phát cho một chiếc áo lính cùng cỡ để mặc cho ấm. Trong đêm tối, chúng tôi trông như những bụi cây không đều nhau, biết đi. Chúng tôi đứng xếp hàng chờ nhận lều, giơ tay vuốt mặt, ướt sũng nước mưa và nước mắt.

Ngày tôi lấy chồng cũng vào một ngày mưa. Ở California giữa tháng chín mà mưa, thế có lạ không! Theo phong tục Mỹ, cô dâu chú rể vừa bước ra ngưỡng cửa nhà thờ, người ta tung gạo như mưa vào người để chúc may mắn. Ở quê tôi người ta chỉ ném gạo theo sau những chiếc quan tài vì sợ người chết đói. Mẹ tôi (dù là người Công Giáo) thấy giữa đám cưới mà bị ném gạo thì hoảng quá giơ tay ngăn lại. Tôi nghĩ cả hai phong tục đều hay cả. Nếu lấy nhau mà không được nuôi bằng tình yêu thì cũng bị đói vậy. Cơn mưa nào cũng mang theo ý nghĩa của nó.

Chị em tôi ở Mỹ lâu lắm rồi, lâu đến nỗi thỉnh thoảng nghĩ đến mà bàng hoàng cả người. Vì tính ra khoảng thời gian mình ở Mỹ đã dài bằng khoảng thời gian ở cả Hà Nội và Sài Gòn cộng lại. Thế mà chúng tôi vẫn hay nhắc đến những cơn mưa ở quê nhà. Chúng tôi hay nói: “Tối qua mưa nặng hạt và to tiếng như mưa ở Sài Gòn” hay “Mưa rả rích mấy ngày liền như thế này thì có kém gì Huế!”. Nhưng ở đây lâu thế mà sao không thấy ai hứng nước mưa để uống, để pha trà nhỉ? Người kỹ tính lắm thì cũng chỉ pha trà bằng nước bán trong chai. Tôi nhớ ngày trước, nhà tôi có căng một miếng vải màn trắng trên miệng một chiếc vại để ngoài sân hứng nước mưa uống quanh năm. Người Việt sang đây giản dị hóa, đã bỏ hết những chuyện uống cầu kỳ này.


Mưa ở Seattle làm cho những dãy núi bao bọc chung quanh thành phố trông tinh khiết và cao cả hơn lên, nhưng cây tùng, cây bách giữ mãi một màu xanh thẫm, chạm tay lên lá, lá mịn màng, trong sạch như thiếu nữ mới lớn, mưa làm nước hồ thăm thẳm mềm mại như một giải lụa. Tiếng chim hót trong mưa thánh thót hơn, con sóc, con chồn lúc nào cũng có một bộ lông còn mới dưới mưa. Và hình như sống ở nơi có nhiều mưa, con người điềm đạm và bao dung với nhau hơn. Tuổi trẻ thì giản dị, tự nhiên. Tôi đã thấy những học sinh trung học ở đây đứng thản nhiên hôn nhau dưới mưa trước cổng trường.

Ôi những cơn mưa ở hai đầu trái đất! Mưa Sài Gòn và mưa Seattle. Cũng chỉ là những đám mây tụ lại, rồi rơi xuống. Nhưng khi rơi trên nóc một chiếc quan tài của người lính, trên chiếc áo dài trắng của cô học trò trung học, trên mái tóc của hai người yêu nhau, trên vai áo của người tỵ nạn Việt Nam, mưa khác biệt thế nào so với khi rơi xuống trên những cành thông ở Seattle hay giữa một đám cưới ở California? Và khi vẽ mưa trong những bức tranh ở những nơi khác nhau, người ta có vẽ cho nó những hình thể khác nhau, chọn những gam màu khác nhau?

Ước gì có ai vẽ được linh hồn của những giọt mưa!

TRẦN MỘNG TÚ

Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội, Phạm Đình Chương
http://youtu.be/91ck_lhcGaw

Mưa hoàng hôn, trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hòa
Thương màu áo ngà, Thương mắt kiêu sa
Hiền ngoan thiết tha
Thơ ngây đôi má nhung hường
Hà Thành trước kia thường thường về cùng lối đường
Khi mưa ướt, lạnh mình ướt
Chung nón dìu bước thơm phố phường

Mưa ngày nay, như lệ khóc phần đất quê hương tù đày
Em ngoài ấy còn nhớ hẹn xưa miệt mài
Giăng mắt heo may Sầu rơi ướt vai
Hồn quê tê tái...

Mưa mùa thu , năm cửa ô sầu hắt hiu trong ngục tù
Tủi thân nhớ bao ngày qua
Mưa ngùi thương nhòa trên giòng sông Hồng Hà
Ôi còn đâu vàng son mùa thơ hiền hòa
Đau lòng Tháp Rùa, Thê Húc bơ vơ, Thành Đô xác xơ!
Cô liêu trong nỗi u hoài Lòng người sống lạc loài
Thê lương mềm vai gầy Bao oan trái dâng tê tái
Cho kiếp người héo mòn tháng ngày
Mưa còn rơi... Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời
Vang trời tiếng cười ấm niềm tin hồn người
Mây trắng vui tươi Tình quê ngút khơi
Tự Do phơi phới.



Khi Xa SÀI GÒN
Sáng tác: LÊ UYÊN PHƯƠNG

Sài-gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài-gòn bây giờ ai khóc thương ai
Sài-gòn giới nghiêm che kín đêm dài
Sài-gòn khói bay, Sài-gòn nắng đổ
Sài-gòn đã buồn như trời sớm mai

Sài-gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài-gòn bây giờ ai khóc thương ai
Sài-gòn giới nghiêm che kín đêm dài
Sài-gòn khói bay, Sài-gòn nắng đổ
Sài-gòn có còn bước chiều bơ vơ

Sài-gòn còn ai khóc kẻ lên đường
Sài-gòn xe chiều rạt rời vó ngựa
Sài-gòn âm thầm, đèn đỏ đèn xanh
Sài-gòn mưa bay, thôi thế cũng đành
Giấc ngủ miền xa, ôm trời núi rừng
Bên rừng nhớ nắng Trung Nguyên

Sài-gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài-gòn bây giờ cúi mặt xa nhau
Sài-gòn bước ai gõ xuống đêm sầu
Sài-gòn bóng nghiêng, Sài-gòn đứng đợi
Sài-gòn bây giờ cúi mặt xa nhau
Ngăn cách (Y Vân)






Yêu nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài gắn bó đôi lời
Ta quen nhau một ngày, thương nhau trọn đời, giữ cho lâu dài
Khi chia tay lần đầu, duyên chưa đậm mầu cũng đã say nhiều
Một thời gian quen biết, tình ta tha thiết muôn phần


Nhưng không ai nào ngờ, duyên đang mặn mà bỗng đã chia lìa
Ðêm chia ly lạnh lùng, đưa tay một lần, đến mai không còn.
Ðêm nay không còn dài, xin cho vài lời, chớ trách nhau hoài
Lời từ ly êm ái, để đâu không nói đêm naỵ..







Từ ngày mai ngăn cách, hết rồi là khi đưa đón
Có mấy ai không buồn lúc duyên chưa tròn thương mến
Em lên xe hoa rồi! Biết rằng sầu để một người
Rượu hồng chẳng được say mà đành lòng nếm chua cay!


Mây sao quên hạn kỳ?
Cho trăng buồn vì nhớ mãi câu thề.
Mây đem mưa trở lại, mưa hay nhiều lời, khiến trăng mỉm cười..

Không! Trăm không ngàn lần, không ai giận hờn nếu đã hay rằng:
''Lòng người như chiếc lá, nằm trong cơn gió vô tình''







Một thể loại ca khúc đặc trưng của Việt Nam tôi sẽ tạm gọi là lỡ tình ca. Hai người yêu nhau, có duyên nợ nhưng bắt phải vĩnh viễn chia tay. Tôi nghĩ rằng "Ngăn cách" là một trong những bài ca xuất sắc của loại này. Giai điệu này thật đẹp và dễ nhớ. Nhịp boston lento với mô típ nốt đen có chấm với ba nốt móc tiếp theo dù lặp lại nhiều cũng hợp với nối tiến hòa âm chậm thay đổi trong ca khúc này.

Cái đoạn ở giữa ("Từ ngày mai ngăn cách") không phải là một điệp khúc - phải coi đoạn này như một đoạn bắc cầu với những nét đặc biệt. Giai điệu lên cao ở đây (đưa đón) với hay nốt cao nhất trong bài ca (Có mấy...). Rồi có các nốt nửa cung hàng xóm - "Em lên xe hoa rồi" (I-vii#) và "rằng sầu để một người" (V-iv#) - làm cho xúc cảm ở đây được mãnh liệt hơn. Nhưng xúc cảm trong giai điệu trong câu cuối đoạn này ("Rượu hồng...) được giảm và được giải quyết với hai nốt hàng xóm cuối cùng (chua cay -- ii-I). Đây cũng là nhạc "đành lòng."

Hành trình của nhạc này sắp kết thức - sau đoạn bắc cầu thì cái đoạn đầu lặp lại thì nghe rất khác. Ca từ ở đây có ít nhiều chất tiền chiến - mây với mưa, trăng. Nhưng câu cuối cùng của bài ca đã thành như một câu ca dao - "Lòng người như chiếc lá, nằm trong cơn gió vô tình." Đây là một cách sống rất vô lực, song ý này khá đúng - lòng người rất khó điều khiển. Còn phải nói có thể rằng số phận con người được thể hiện rõ rệt nhất trong việc tình yêu, hôn nhân.

Y Vũ, người em trai nhạc sĩ Y Vân, đã nhắc rằng "Ca khúc Ngăn Cách là sáng tác đầu tay của anh, ghi lại những kỷ niệm về mối tình đầu trắc trở của anh ấy với một cô gái Hà Nội, tên là Tường Vân." (Hình như Tường Vân này là cảm hứng cho đôi chữ "yêu Vân" ghi tắt thành "Y Vân.") Nếu đúng vậy thì bài ca này được sáng tác trong khí Hà Nội tiền chiến.

Khánh Ly nhắc một chuyện khác (chắc xây ra năm 1964 gì đó):

"Từ ông Nguyễn Đình Toàn, tôi gặp được nhạc sĩ Y Vân và hát cho ông nghe. Nhạc sĩ Y Vân vừa sáng tác xong bài Ngăn Cách, ông dạy và đưa cho tôi nhưng có một đêm ở Đại Nam, khi được hát, tôi đưa bài Ngăn Cách cho ông Lê Văn Thiện, lúc đó là trưởng ban nhạc, ông Thiện cầm xem rồi liệng cái xạch...bài gì mà cải lương...tôi đâu dám có phản ứng gì. Thật tôi cho tôi chẳng có duyên với bài hát ấy. Về sau khi chị Minh Hiếu hát, bài Ngăn Cách lập tức nổi tiếng cho đến bây giờ."

Tôi khác với nhạc sĩ Lê Văn Thiện thì cho rằng tính từ "cải lương" có nghĩa là tuyệt vời, có chất thích hợp với sở thích bình dân, có âm sắc rất Việt Nam.

Bản của Lệ Thu hát "Ngăn cách" rất hay chính vì phần đệm.


Ba nhịp trống nghe thong thả và nhẹ hơn. Lệ Thu hát hai câu đầu của mọi đoạn rất êm đềm. Rồi lúc hát hai câu cuối Lệ Thu hát rất xúc cảm, hát hết mình ("Khi chia tay lần đầu"). Và phần đệm cũng thành mạnh hơn nữa. Nghĩa là cách thể hiện này có chất tương phản, và ca sĩ này cũng cố gắng phản ứng ý nghĩa của ca từ.

Một bản thu âm bài ca này tôi rất thích là của Minh Hiếu thể hiện. Có lẽ đây là lần đầu tiên bài "Ngăn cách" được thu âm. Như Khánh Ly viết ở trên chính Minh Hiếu đã giới thiệu bài hát này lần đầu. Minh Hiếu lúc "lên xe hoa" đã bỏ nghề ca hát vậy không được biết đến nhiều hiện nay, nhưng ngày xưa ca sĩ này có danh hiệu là Vương Hậu Phòng Trà.

Minh Hiếu hát bài "Ngăn cách" nhanh hơn - hát đến cùng chỉ kéo dài 2 phút 50 giây - với nhịp "slow rock" nhịp 3. Minh Hiếu được hát cả một câu trong một hơi thở.

Dù hát nhanh Minh Hiếu cũng hát có trang trí hơn. Lúc hát "cơn gió vô tình" ở cuối bài Minh Hiếu hát như đoạn cuối của phần rao của vọng cổ. Chữ "rồi" (lên xe hoa rồi) được hát non. Lúc hát "nói đêm nay" chữ "nói" có nốt hàng xóm ở trên và chữ "đêm" có nốt hàng xóm ở dưới. Về phần đệm tôi rất thích hợp ca nữ hát theo giọng chính. Còn nữa cái đoạn bắc cầu thì hợp ca ngừng, và phần đệm của đoạn nhạc này được nhỏ nhẹ hơn - cũng là một cách để nhấn mạnh đoạn này.





sưu tầm
Mưa Chiều Kỉ Niệm


Sáng tác: Duy Yên - Quốc Kỳ

Nhớ chiều nào em đến thăm anh
Hai bên đường phố đã lên đèn
Mưa xuân giăng mờ trắng khung trời
Ngồi bên nhau lưu luyến
Mưa thấm ướt đôi vai.

Tiếng nhạc tình xao xuyến đôi tim
Mưa giao hòa nước mắt ân tình
Tay trong tay trong tiếng đàn trầm
Nhìn nhau nhưng không muốn nói
Sợ tình yêu chóng phai.

ĐK:
Nhưng hôm nay xa rồi, hương xưa đã phôi pha
Mưa bay sau khung trời, quạnh hiu sau màn lá
Mưa rơi rơi vô tình, nghẹn ngào tràn ngập lòng
Chiều buồn về lạnh lùng, xót xa tình đầu tiên.

Có một mình anh đứng trong mưa
Nơi đây hình bóng cũ mịt mờ
Em ra đi không nói một lời
Từng chiều mưa dĩ vãng
Xao xuyến mãi trong lòng anh.

Những chiều buồn hiu hắt thương ai
Mưa âm thầm phố cũ đêm dài
Trong cô đơn hình bóng một người
Tìm ai trên lối cũ
Tình yêu không thấy đâu.


Mưa tháng hai ở California





Nguyễn Mạnh Trinh/Việt Herald



Tháng hai ở California có những cơn mưa. Mưa. Mang theo hơi lạnh và mang theo cả những nỗi buồn man mác. Buồn, cũng như nước giọt bất chợt từ trời cao, có khi chỉ là những nỗi sầu lan man không duyên cớ.

Ðêm mưa, nằm nghe nước giọt bên ngoài, trong nệm êm chăn ấm , dường như có nỗi niềm nào lẩn khuất từ tiếng gió, từ tiếng mưa. Cái giây phút hiện sống sao nó cũng mơ hồ, y như những ngày nào đã qua, hệt như thuở nào đã hết. Tôi mơ màng trong cái cảm giác không biết mình ở nơi đâu, sống chỗ nào. Những ngày tháng cũ trôi qua, từ thuở ấu thơ tắm truồng ở một xóm lao động Sài Gòn đến những cơn mưa trưa bất chợt, đứng trú mưa ở một hàng hiên và nghe lòng xôn xao khi thoảng nghe mùi tóc của một người nữ bên cạnh. Hay những cơn mưa của Pleiku, của xôn xao mật ngọt tình đầu, của những đêm mưa mù mịt đất trời trở về phi trường trong nỗi buồn của một người tưởng như bị biếm vào đất trích...

Những câu thơ trở lại với tôi trong canh khuya. Nguyễn Bính. Một thân lận đận nơi trời xa/ nằm nghe mưa rơi trên mái nhà/gió bấc vào thu đầy tiếng lá/đời tan mộng đẹp tiếc xuân qua... Tôi ở phương xa nhưng đâu có lận đận? Sao vẫn tiếc hoài khi sống lại những cơn mơ.

Buổi sáng nay trên xa lộ. Trời mưa. Ðáng lẽ giờ này lười lĩnh trong chăn ấm với giấc ngủ nướng mà phải lặn lội đường xa trong cái hiu hắt của đất trời. Những rặng núi xám phía hướng trước mặt vẫn là nền đen thẳm trong màn mưa mù mịt. Chạy vào lane trong, với tốc độ chậm, vặn nhạc hòa tấu nhẹ nhẹ, tôi miên man trong từng ý nghĩ. Dường như có tiếng gọi nào, của mơ mộng thanh xuân, của thuở nào hăm hở với giấc mộng cho đời, cho người. Mỗi một lúc trong thăng trầm của cuộc đời, mỗi nỗi niềm riêng. Khi rời giảng đường vào lính, giấc mộng chẳng to tát vá trời lấp biển, nhưng cũng là những cảm nhận khá ngây thơ về đường binh nghiệp.

Khi vượt biên, tưởng như mang theo thông điệp của những người còn kẹt lại ở quê nhà, cao giọng cất lên tiếng nói của người yêu tự do dân chủ. Và khi sang định cư ở xứ người, hăm hở bước vào con đường lập nghiệp mới cho bản thân, vừa học vừa làm để tròn trách nhiệm với bản thân và còn mong góp vào những công việc chung của một cộng đồng lập nghiệp ở xứ người vì tìm kiếm những ý nghĩa cho cuộc sống đời xa xứ. Những ước vọng ấy, thôi thúc, có khi thành một ám ảnh và là ray rứt trong cái nhịp sống thúc đẩy đến chóng mặt của xã hội hiện tại.

Hình như tôi có một bài thơ nói về cảm giác ấy.Mưa buổi sáng trên xa lộ phía nam. Bài thơ có những đoạn như:

“những buổi sáng mưa dài trước mặt
nước ào ạt tung tóe khoảng trời
đèn thắp lên thiên thu đừng tắt
gọi ai người khản tiếng tàn hơi


đường trải ra chuyến xe mỗi nặng
đi về phương bắc hay phương nam
sao tiếng sóng đằng sau còn vẳng
hay là đời nhịp của chia tan


mưa vỗ vỗ nhạt nhòa khung kính
ru ta ru ta mưa thầm thầm





ngọn núi thẳm trước sau vô định
cánh chim bay vào chốn biệt tăm
một tiếng đồng hồ trên xa lộ
nghĩ mãi về đời mãi về mình


với lúc thực hư dường chẳng rõ
thấy mình heo hút giữa lặng thinh
tự giải thích với ngàn câu hỏi
ta hôm nay ta sống làm gì


ngày tiếp ngày không chờ không đợi
chuyến xe sang tiếp nối về đi...
tóc dần phai mộng dần phai nhạt
vui như lá cỏ đọng sương mai
mà buồn như hàng hà hạt cát
ta làm gì làm gì hôm nay...”



Có người đọc thơ cho rằng đây là một khuynh hướng thơ “hội nhập bình thản”. Một kết luận chắc nịch cho bài thơ: vừa lòng với hiện tại, với công việc làm và yên phận. Thực ra cái từ ngữ hội nhập bình thản tự nó đã có những định nghĩa mơ hồ và người đọc thơ đã hiểu một cách nào khác để có những kết luận đầy tính suy diễn. Mà suy diễn thì ít khi có tính chính xác! Bài thơ trên không có chữ nào để nói lên tâm trạng vừa lòng với hiện tại và cũng chẳng có ngôn ngữ nào để chỉ rằng vừa lòng với công việc làm đang có cũng như yên phận với những sự đều đều nhàm chán của cuộc sống.

Trong bài thơ, là cảm giác của một người vừa phải sống đời của một người bình thường đánh vật với cơm áo lại vừa bị ray rứt của những nỗi niềm của một người muốn dấn thân nhưng chưa có dịp thì tuổi già sắp đến. Những ngôn ngữ như “ khản tiếng tàn hơi”, như “tiếng sóng đằng sau còn vẳng”, hay hình ảnh như “ngọn núi thẳm trước sau vô định? Cánh chim bay vào cõi biệt tăm”, đều muốn nói lên cái tâm tư của một người tị nạn xứ người nhưng vẫn thầm canh cánh những nỗi niềm ấp ủ từ lúc thanh xuân...

Giải thích một bài thơ, nhiều khi giống như một công việc giết chết thơ. Ðâu có ai mang cảm xúc ra để kể lể, mang tâm sự ra để đối chiếu với thơ. Nhưng, nhiều khi viết với cái tâm cảm của mình mà bị cảm nhận bởi những ý nghĩ sai lạc đến một trăm tám chục độ thì cũng là điều đáng buồn cho người làm thơ...

Thực ra, mỗi người có một lối cảm nhận thơ riêng. Nhất là không thể dùng sự suy diễn từ những yếu tố khác ngoại văn bản để kết luận về một điều này điều nọ. Ðọc thơ và hiểu được thơ, thực cũng hiếm có mấy ai...

Những cơn mưa tháng hai. Những cơn mưa của người vừa qua tuổi sáu mươi sống song hàng giữa thực tế và mơ mộng. Nhưng cũng may, vẫn còn mơ mộng, vẫn còn văn chương để nghĩ về và viết đến. Nếu không, ôi thôi, đời sống sẽ đơn điệu biết bao. Cái tâm trạng ở Tần nhớ Tấn ấy, hễ là người tị nạn thì ai mà chẳng có. Mỗi khi nghĩ đến lại có điều gì vướng bận trong lòng. Có mấy ai vừa lòng với công việc ở đây, dù là người khoác lác cỡ nào. Lao động, dù cổ xanh hay cổ trắng cũng là đem mồ hôi hay tâm sức để đổi lấy miếng ăn. Ngay cả những người bản xứ da trắng, và ở những cấp vị cao, khi kinh tế trồi sụt, cũng còn thấy được đi làm và có công việc là hạnh phúc. Huống chi, người tị nạn, đòi “hội nhập bình thản” thì có lẽ chỉ là chuyện phong thần...

Mưa tháng hai hình như có hạt nào rơi từ quá khứ. Mới gần đây thôi, những tháng ngày lạ lẫm, những bước đến chập chùng cảm giác. Mưa trên buổi chiều nào gần gũi nhưng lại xa vắng. Mưa trong trí nhớ của tôi...




“Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta
trên góc phố Los Angeles
bảng xe bus lặng thinh
chuyến xe không hành khách trở về
tôi lạnh run đứng ngó.

Mưa ngủ quên giây phút nào
Hạt mưa quá khứ.
Vỡ vụn trên mặt nhựa nâu
Cho anh hơi thở muộn
Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta

Trên đời sống hôm nay kẻ lạ
Góc phố biển một mình
Con hải âu nhìn trời xanh chết rũ
Từng chiếc lá lạnh buốt
Rơi trong ngày đầu năm vừa qua

Ðâu tóc bạc tuổi già
Tuổi thơ ơi tuổi thơ chúng ta
Là âm bản cơn mưa mù mịt
Mưa đã rơi đã rơi ở thành phố chúng ta
Con phố Bolsa mỗi sáng mỗi chiều
Như Sài Gòn nỗi niềm

Gánh trên vai trí nhớ
Giọt nhạc nào rơi rơi
Như bóng chiều tàn phai nắng rụng
Anh nói nhỏ với thinh không
Vừa chết lặng màu hồng
Khi một trời chập chùng gió tím.
Mưa đã rơi đã rơi từ hư không.”





Làm thơ, có phải là chiêu niệm quá khứ và hướng vọng tương lai. Mưa. Giọt ẩm hơi nước đọng lại trong đời sống trong da thịt những sợi cảm xúc nào của riêng một người hay của chung những hệ lụy cuộc đới. Những giọt mưa tháng hai rơi hoài trong tâm thức một người luôn không bằng lòng với tháng ngày hiện tại hôm nay...





Đêm Mưa
Trình bày: Nguyễn Hồng Nhung
Sáng tác: Y Nguyên
http://www.youtube.com/watch?v=Uda3o5vi9uI

Có khi đêm dài mưa mãi,
tiếng mưa hắt hiu mỏi mòn.
Lòng tôi nghe mà buồn quá.
Ôi! Bóng em dáng gầy hiên tối,
nhạt nhoà chờ cuộc tình đêm,
đắng cay với mưa tủi hờn.
Có khi đêm dài không ngủ,
lắng nghe tiếng mưa gầy gò.
Của ai hay mẹ tôi đó?
Ôi! Giữa đời mịt mùng sương gió,
mệt nhoài từng ngày âu lo,
mới thương tuổi xanh đời người.

Thôi trăm năm nhân thế hát theo điệu buồn (ha há).
Thì xin yêu thương nhau nhé cho đời vơi cay!
Lạy mưa hết với những giấc mơ,
mẹ thảnh thơi quên hết âu lo.
Và tôi mơ đến những sớm mai,
người em gái sẽ thấy tương lai.
Và tôi mơ nhắm mắt cứ mơ,
bầy trẻ thơ thôi hết bơ vơ.
Rồi tôi mơ đến những sớm mai,
hai người yêu nhau quên hết thương đau!

No comments: